Friday, January 23, 2009

Vu Quy Phi

Toi la : Cuu SVSQ/TB/TD khoa 2/72 . KBC 4100 .
Truoc thuoc don vi TD 1/33 SD 21 BB , KBC 4615 . Bi thuong ngay 23/12/1974
trong cuoc HQ tai quan Long My , Chuong Thien bi dap min cua CSBV va bi cut 2 chan . Hien nay toi da co gia dinh , vo cung bi cut 2 chan ngay 30/4/75 do bi Vc phao kich tai Cong Ba Sep , Hoa Hung luc 7g sang va co duoc 2 con gom 1gai + 1 trai .

Xin chan thanh cam on tam long cua cac Huynh Truong va cac Dong Mon da quan tam giup do cac anh em TPB cuu SVSQ con dang song cuc kho tai que nha , chung toi se khong bao gio quen cong on cua cac ban.

Xin cau chuc cac anh em va gia dinh sang nam moi duoc that nhieu suc khoe , van su an lanh .

Tran trong kinh chao
Vu Qui Phi27/5B , Tran Van MuoiAp : Xuan Thoi Dong 2Xa : Xuan Thoi Dong Huyen : Hoc Mon , SaiGon , Viet NamDT : 84.8.37108631 - 84.985685520

Tuesday, January 20, 2009

Xuân Về Trên Rừng Vắng




Đêm nghe đạn pháo đón giao thừa
Không biết mai vàng đã nở chưa
Nơi đây rừng vắng dăm thằng lính
Nâng chén rượu mừng uống say sưa

Lính trận miền xa buổi xuân về
Phiên gác đêm buồn nhớ mải mê
Chẵng biết ngày mai trên trận tuyến
Bao kẻ ra đi lổi hẹn thề

Xuân trên rừng vắng gió lặng im
Lững lờ mây trốn bóng trăng chìm
Không biết còn bao mùa xuân nửa
Xa biệt quê hương mỏi bước tìm

Mừng xuân chén rượu uống mềm môi
Chia xẻ cùng nhau kiếp nổi trôi
[Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỹ nhân hồi]

SVSQ Lê Chiến khóa 8/72

Quân Trường Đồng Đế Nha Trang Tân Niên Hội Ngộ 2009






Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu Quân Trường Đồng Đế Nha Trang
(Trường Hạ Sĩ Quan -Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa)
Trân trọng kính mời Quý Niên Trưởng, Quý Chiến Hữu, Đồng Môn, Thân hữu và Gia đình
đến tham dự buổi Tân Niên Hội Ngộ được tổ chức vào ngày:

31 tháng 1 năm 2009
tức mồng 6 Tết Nguyên Đán (Kỹ Sửu)

Địa Điểm:
Nhà Hàng Emerald Bay
5015 W. Edinger Ave
Santa Ana, CA 92704
Thời Gian: 11:30 – 3:30 PM.
714-775-5161

Sự hiện diện của qúy Niên Trưỡng, Chiến hữu, Đồng môn, Thân hữu và Gia đình là niềm vinh dự cho Ban Tổ Chức.

Để việc tiếp đón chu đáo xin qúy vị thông báo số người tham dự với Ban Tổ Chức qua những số điện thoại sau đây:


Phạm Hòa 310-245-2284
Lưu Anh Dũng 310-951-7324
Trần Anh Tuấn 714-468-9226

Tham dự mỗi người $25.00

e-mail: DongDeNhaTrang@gmail.com


THSQ-QLVNCH nơi đào tạo hơn 100,000 Hạ Sĩ Quan ưu tú , 2,000 Sĩ Quan Hiện Dịch và hơn 12,000 Sĩ Quan Trừ Bị của QLVNCH.

Monday, January 19, 2009

Tinh Thần Chương Dương SVSQ K5B/73 SQTB / Hoàng Sa



Sau gần một năm được huấn luyện, ngày ra trường rồi củng đến, tâm trạng vui buồn như đan xen vào nhau giữa các tân Sĩ quan, đêm 19-01-1974 tức 27 tháng chạp sau khi mọi việc chuẩn bị đã hòan tất, tòan thể khóa, các svsq tụ tập ở dưới Vũ đình trường chờ tiến hành các nghi thức của buổi lể mản khóa.

ĐT Cao nguyên Kiễu, Chỉ huy phó của trừơng có lời huấn từ vói tòan thể các tân Sĩ quan, trước khi chúc mừng các cánh chim đã cứng cáp từ đây trở đi sẽ nhận lảnh trách nhiệm mới , ĐT với giọng nói hào hùng vang rền trong không gian huyền ảo của đêm mãn khóa đã uất nghẹn thông báo cho tòan khóa biết rằng vào lúc trưa nay Hải quân Trung cộng đã xâm chiếm Quần đão Hòang Sa của nước ta, hải quân ta sau một trận chiến đấu ác liệt đã không thể giử được đảo và có nhiều chiến sỹ đã hy sinh, kẻ thù từ ngàn xưa đã xuất đầu lộ diện kể từ giờ phúc này nhiệm vụ của chúng ta nặng nề hơn, có thêm một kẽ thù nửa, kẻ thù muôn đời của dân tộc Việt, để mọi khóa sinh noi gương truyền thống tổ tiên tôi đặt tên cho khóa là Chương Dương, tòan thể các khóa sinh đồng loạt hô vang Chương Dương….Chương Dương ..dứơi bóng đêm mờ ảo của khói hương, tổ tiên việt đả về đây chứng giám nổi lòng của vị chỉ huy và các tân Sĩ quan Khóa Chương Dưong.

Với nhửng bài học về lịch sử ở nhà trường thời đi học, chúng tôi nghỉ rằng cuộc chiền đấu trong suốt chiều dài của tổ tiên Việt tưởng rằng đã đi vào dĩ vãng, nhưng oan nghiệt thay đến thời đại này khi thế giới đả có tổ chức LHQ để các nước có thể không thể bước qua để làm kẻ cứơp vậy mà vẩn có nước vẩn coi thường mọi luật lệ ngang nhiên chiếm đóng đất đai, hãi đảo của nước láng giềng, giờ đây ,phút này trong lòng chúng tôi cảm thấy có một sự đồng cảm sâu sắc với tổ tiên nước ta khi đất nước bị xâm chiếm bởi kẻ thù phương bắc.

35 năm đã trôi qua ,Hòang sa vẩn trong tay kẻ thù, Trừong sa một số đảo cũng bi mất và nhiều điều trước đây mọi người không biết thì giờ đây củng dần sáng tỏ. năm 1974 khi miền nam sau khi bi mất quần đão HS, đã ngây thơ yêu cầu miền bắc hảy vì đất nước tổ tiên từ ngàn xưa để lại cùng lên tiếng tố cáo trước LHQ hành động ngang ngược dùng vũ lực chiếm đóng HS của VN, nhưng Hà nội đã im lặng, điều gì đả khiến giới cầm quyền miền Bắc câm lặng. Theo lịch sử để lý giải cho việc này,sau khi ký hiệp đinh Paris để tìm hiểu hành động của Mỹ có muốn quay trở lại VN không, điều chứng minh cụ thể nhất là thử xâm chiếm một vùng đất nào đó và HS là mục tiêu . .

Qủa nhiên người Mỹ đả bỏ mặc cho Trung cộng chiếm HS, bài tóan đả có lời giãi, CS miền bắc lên kế họach để tiến chiếm luôn miền nam một năm sau đó,mà không sợ ngừơi Mỹ nhảy vào lần nửa, như vậy việc xâm chiếm HS của VN có thể là món quà của miền bắc để xác định lời giải rằng người Mỹ có thật sự ra đi và không trở lại cho dù miền nam có ra sao?

35 năm đã trôi qua các Chương dương ngày xưa khi rời trường với một tấm lòng đầy nhiệt huyết với hai kẻ thù ở hai vai, giờ đây qua nhiều kiếp nạn không biết còn lại bao nhiêu người, đã tản mạn khắp nơi trên trái đất này,và biết bao Chương Dương dã ở dưới lòng đất mẹ nhưng tinh thần của đêm 19-01-1974 đó thì bất diệt.

VN 19/01/2009
CHƯƠNG DƯƠNG



Ý NGHĨA LỊCH SỬ TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA
Trần Gia Phụng, Jan 19, 2009
Sự hy sinh của Ngụy Văn Thà và đồng đội trong trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-01-1974 là thiên anh hùng ca bất tử, mãi mãi vang vọng như nhạc hồn đất nước trong lịch sử hào hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam.

Cali Today News - Trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-01-1974, đã được nói và viết đến nhiều. Nhân kỷ niệm 35 năm xảy ra trận hải chiến nầy, ở đây chỉ xin ôn lại vài ý nghĩa lịch sử của trận chiến anh dũng của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa.

1.- VIỆT NAM CỘNG HÒA

Trước hết, cần phải ghi nhận hoàn cảnh khó khăn của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) hay Nam Việt khi trận Hoàng Sa xảy ra: Hiệp định Paris (27-01-1973), cũng giống hiệp định Genève (20-7-1954) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, mà giải pháp chính trị không rõ ràng, chỉ để cho quân đội Hoa Kỳ đơn phương rút quân trong danh dự mà thôi.

Trong khi quân đội Hoa Kỳ rút lui, Hoa Kỳ giảm, rồi ngưng viện trợ cho VNCH thì Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) hay Bắc Việt chẳng những không rút quân khỏi lãnh thổ VNCH, mà còn được Cộng sản Quốc tế (CSQT) tăng cường quân lực, liên tục tấn công VNCH.

Lợi dụng hoàn cảnh quân đội Hoa Kỳ rút lui và quân đội hai miền Nam và Bắc Việt Nam mải mê đánh nhau, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) hay Trung Quốc đưa hạm đội hùng hậu đánh chiếm Hoàng Sa ngày 19-01-1974.

Việt Nam Cộng Hòa ở thế lưỡng đầu thọ địch (hai đầu bị địch tấn công). Trong khi chiến đấu chống cộng sản Bắc Việt, Quân lực VNCH cương quyết chiến đấu bảo vệ tổ quốc, chống đánh tập đoàn bành trướng Bắc Kinh. Phải nhấn mạnh là toàn thể quân dân VNCH, từ trên đến dưới, một lòng cương quyết bảo vệ lãnh thổ của tổ quốc kính yêu.

Ngày 17-01-1974, trước những tin tức về việc các chiến hạm Trung Quốc hăm dọa quần đảo Hoàng Sa, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đến thăm Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng I Chiến Thuật, đã chỉ thị cho vị Tư lệnh HQ Vùng I là Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, chuẩn bị chiến đấu để bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ.

Trong trận chiến nầy, Hải quân VNCH đã gây thiệt hại nặng nề cho hạm đội Trung Quốc, nhưng ngược lại, hạm đội Trung Quốc cũng gây thiệt hại không ít cho Hải Quân VNCH. Chiếc tàu bị thiệt hại nặng nhất về phía chúng ta là Hộ tống hạm HQ10 do thiếu tá Ngụy Văn Thà chỉ huy.

Hộ tống hạm HQ10 bị trúng đạn ở phòng máy chánh và bị nghiêng về bên phải. Phòng chỉ huy cũng bị trúng đạn. Cả chỉ huy trưởng cùng chỉ huy phó đều bị thương. Biết tình trạng chiếc tàu không thể cứu vãn, chỉ huy trưởng Ngụy Văn Thà ra lệnh cho chỉ huy phó Nguyễn Thành Trí và thủy thủ đoàn còn lại phải đào thoát. Toàn bộ thủy thủ đoàn yêu cầu chỉ huy trưởng cùng rời tàu luôn, nhưng Ngụy Văn Thà từ chối Ông cương quyết ở lại chết theo tàu. Nguyễn Thành Trí xin ở lại với chỉ huy trưởng, cũng không được chấp thuận.

Ngụy Văn Thà ở lại biển Đông, hy sinh thân mạng đền nợ nước, là một anh hùng dân tộc, tiếp nối truyền thống hào hùng của Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản… Sự hy sinh của anh em Hải quân VNCH ở Hoàng Sa ngày 19-01-1974 càng ngày càng thêm sáng ngời, nổi bật trước sự hèn nhát của nhà cầm quyền và bộ đội CSVN, hiện đang để cho Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ, lãnh hải, mà chẳng dám lên tiếng.



2.- VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA

Trước tin Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, nhà nước Bắc Việt, đảng Lao Động tức đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) và quân đội CSVN, thường tự mệnh danh là "quân đội nhân dân anh hùng, chiến thắng cùng một lúc hai đế quốc sừng sỏ là Pháp và Mỹ", đã hoàn toàn im lặng mà không dám lên tiếng.

Sở dĩ CSVN không dám lên tiếng vì từ năm 1950, Hồ Chí Minh đã nhiều lần sang Trung Quốc cầu viện để chống Pháp. Đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) đã hết sức giúp đỡ CSVN. Trung Quốc giúp đỡ CSVN không phải vì tình nghĩa quốc tế cộng sản, mà chính vì để bảo vệ nền an ninh biên giới phía nam của Trung Quốc. Đảng CSTQ ào ạt viện trợ cho CSVN từ 1950 đến 1954. Viện trợ nhiều mà không có điều kiện để trả, thì chỉ còn cách duy nhất là nhượng bộ về chính trị, về giao dịch, về lãnh thổ…

Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7-1954, chia hai nước Việt Nam tại vĩ tuyến 17, CSVN ở phía bắc và Quốc Gia Việt Nam (QGVN) ở phía nam. (QGVN đổi thành VNCH sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955.) Vì chủ trương đánh chiếm miền Nam bằng võ lực, CSBV cương quyết từ chối đề nghị của Liên Xô năm 1957, theo đó cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam cùng vào Liên Hiệp Quốc như hai nước riêng biệt

Ở Bắc Việt, ngày 24-5-1958, Ban bí thư Trung ương đảng Lao Động chỉ thị tổ chức học tập chủ thuyết Mác-Lê để xây dựng miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa và tiến hành cách mạng ở miền Nam. Muốn tiến đánh miền Nam thì một lần nữa phải nhờ đến sự trợ giúp của Trung Quốc.

Vay nợ Trung Quốc từ năm 1950 chưa trả hết, nay CSVN một lần nữa lại muốn nhờ Trung Quốc tiếp tục giúp đỡ để tấn công VNCH, bành trướng thế lực cộng sản xuống phía Nam. Đây là hai lý do chính khiến thủ tướng CSVN là Phạm Văn Đồng đưa ra công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về lãnh hải của Trung Quốc và triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc. Phạm Văn Đồng ký công hàm trên phải được sự đồng ý của Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng Lao Động. Quyết định nầy sẽ tạo ra những hậu quả không lường trước được.

Điểm sai lầm chiến lược lớn lao nhất, trở thành tội phản quốc, rước voi về giày mộ tổ, là CSVN đã dựa vào Trung Quốc để đánh miền Nam, viện cớ "chống Mỹ cứu nước". "Chống Mỹ cứu nước" chỉ là cái cớ để kích động lòng dân. Tuy nhiên, riêng cái cớ nầy cũng đã sai lầm. Trong lịch sử Việt Nam, Trung Quốc đã nhiều lần xâm lăng Việt Nam. Vào thế kỷ 15, nhà Minh chẳng những xâm lăng nước ta, mà còn muốn tiêu diệt toàn bộ nền văn hóa của chúng ta, đốt hoặc tịch thu sách vở, bắt bớ nhân tài, đập phá các bia đá… Ngược lại, trong lịch sử thế giới, sau thế chiến thứ hai, những nước bị bại trận trước Hoa Kỳ đều được Hoa Kỳ viện trợ, giúp đỡ tái thiết, và đều trở nên cường thịnh: Đức, Nhật Bản, Nam Hàn… Giữa tăm tối và ánh sáng, giữa đói nghèo và thịnh vượng, CSVN đã đi vào con đường tăm tối đói nghèo, như thi sĩ Nguyễn Du đã viết: "Ma đưa lối, quỷ đem đường, / Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi." (Kiều, câu 2665-2666).

Ngoài ra, cần chú ý rằng người Tây phương đến Việt Nam thường sẽ ra đi, vì văn hóa, phong thổ, khí hậu, đời sống người Tây phương khác hẳn với Việt Nam, nên rất ít người Tây phương chịu ở lại Việt Nam. Ngược lại, Trung Quốc ở sát nước ta, phong thổ, khí hậu, văn hóa, văn minh, đời sống gần giống người Việt Nam, nên một khi người Trung Quốc đến nước ta, thường sẵn sàng ở lại nước ta.

Nếu Bắc Việt và Nam Việt cùng vào Liên Hiệp Quốc theo đề nghị của Liên Xô năm 1957, thi đua xây dựng kinh tế, cùng nhau phát triển đất nước, thì không thể nào Trung Quốc tiến chiếm Hoàng Sa dễ dàng được. Đàng nầy, CSBV cố tình tiến đánh miền Nam, gây ra cuộc chiến, làm cho đất nước chia rẽ, điêu linh, yếu nghèo. Nam Việt bận chống lại Bắc Việt, bảo vệ nền tự do dân chủ ở miền Nam. Trung Quốc nhân cơ hội hai bên đánh nhau, và cơ hội Hoa Kỳ rút quân, liền bất ngờ đánh chiếm Hoàng Sa. Hoàng Sa tuy thuộc lãnh thổ của Nam Việt, nhưng cũng là lãnh thổ chung của Việt Nam, do cha ông người Việt để lại. Như thế, chính CSBV đã tạo điều kiện cho CSTQ tiến chiếm lãnh thổ Việt Nam. Có thể nói, đây là tội phản quốc hết sức lớn lao mà lịch sử không thể tha thứ được. Chính tội phản quốc nầy kéo theo những tội phản quốc về sau, khi CSVN ký các hiệp ước năm 1999 và 2000, nhượng đất (trong đó có thác Bản Giốc và ải Nam Quan) và nhượng biển trong vịnh Bắc Việt cho Trung Quốc.

3.- CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG HOA

Việc CSTQ đánh chiếm Hoàng Sa, đối với Trung Quốc, có nhiều ý nghĩa quan trọng:

Các triều đại quân chủ trước đảng CSTQ, đã nhiều lần đem quân xâm lăng Việt Nam, tìm đường xuống Đông Nam Á, đều bị người Việt Nam đẩy lui. Sau trận hải chiến ngày 19-01-1974, Trung Quốc đã chiếm được hải đảo chiến lược Hoàng Sa. Đây là một chiến công lớn lao của đảng CSTQ, vì CSTQ đã làm được việc mà tổ tiên họ không làm được.

Trung Quốc đã đầu tư dài hạn trong chiến tranh Việt Nam, tích cực giúp đỡ CSVN từ 1950 đến 1954. Sau năm 1954, tuy biết rằng CSVN chẳng có gì để trả nợ, nhưng vì âm thầm nuôi dưỡng ý đồ đen tối, CSTQ vẫn tiếp tục giúp đỡ Bắc Việt từ 1954 đến 1973, là năm ký hiệp định Paris. Theo đúng thời điểm Hoa Kỳ vừa rút quân khỏi Việt Nam, CSTQ liền xiết đất bù nợ mà CSVN đã thiếu Trung Quốc bấy lâu nay. Bắc Việt đành phải im tiếng cho kẻ thù truyền kiếp phương bắc cưỡng chiếm lãnh thổ do tổ tiên để lại.

Đây cũng là chiến công đầu tiên của Trung Quốc sau khi Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (LHQ) ngày 25-10-1971, quyết định chấp nhận cho CHNDTH thay thế Trung Hoa Dân Quốc trong tổ chức nầy. Từ đây, Trung Quốc là hội viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ, một trong ngũ cường có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an LHQ. Chi tiết nầy cho thấy không phải khi đứng ngoài LHQ, Trung Quốc mới hung hăng, mà cả khi đứng trong LHQ, Trung Quốc cũng cường bạo không kém.

Chiếm được Hoàng Sa, CSTQ đặt được một đầu cầu để tiến xuống phía nam và vào biển Đông. Có lẽ cần để ý đến cách đặt địa danh của Trung Quốc trong Thái Bình Dương. Biển phía đông Việt Nam, Trung Quốc đặt tên là Biển Trung Quốc (Mer de Chine = China Sea). Biển và quần đảo Indonesia, Trung Quốc đặt tên là Nam Dương Quần Đảo, tức là quần đảo trong biển phía nam của Trung Quốc. Như thế Trung Quốc muốn chứng tỏ rằng vùng biển nầy là của Trung Quốc. Từ lâu, Trung Quốc khao khát tìm đường xuống phía nam.

Vùng biển nầy lại hứa hẹn nhiều tiềm năng về dầu hỏa dưới lòng biển, mà nhiều nước trên thế giới và cả các nước Đông Nam Á đang dòm ngó, nhất là từ khi các hảng dầu khí của Hoa Kỳ tuyên bố tìm thấy nhiên liệu quý hiếm nầy ở thềm lục địa Việt Nam từ năm 1973. Dầu hỏa là nhiên liệu chiến lược mà tất cả các nước phát triển trên thế giới đều cần đến. Các nước Tây phương đã khai thác, mua bán dầu ở Trung Đông và Nam Mỹ, trong khi Trung Quốc phát triển sau các nước Tây phương, đang rất cần dầu hỏa cho nền kỹ nghệ của Trung Quốc.

Vì vậy, khi Hoa Kỳ quyết định rút lui khỏi Việt Nam, Trung Quốc liền chụp lấy cơ hội để đánh chiếm Hoàng Sa, mở đường vào biển Đông.

4.- HOA KỲ

Từ khi đảng CSTH thành công và thành lập chế độ CHNDTH năm 1949, người Hoa Kỳ rất lo ngại sự bành trướng của cộng sản. Từ tháng 1-1950, thượng nghị sĩ Joseph Raymond McCarthy (1908-1957), thuộc đảng Cộng Hòa, tiểu bang Wisconsin, phát động chiến dịch tố cộng, thịnh hành đến nỗi người ta gọi là chủ thuyết Carthyism.

Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp vào Đông Dương để chận đứng làn sóng cộng sản, công nhận chính thể Quốc Gia Việt Nam (QGVN) do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu ngày 4-2-1950. Từ đó, Hoa Kỳ viện trợ càng ngày càng nhiều cho Đông Dương qua tay người Pháp.

Sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954, Hoa Kỳ thay chân Pháp ở Việt Nam, giúp chính phủ QGVN rồi VNCH xây dựng miền Nam thành một quốc gia mạnh mẽ để chống cộng. Do sự hiện diện của đoàn cố vấn Hoa Kỳ, Bắc Việt đưa ra khẩu hiệu "chống Mỹ cứu nước", tiến đánh miền Nam.

Từ thập niên 60, trong khi Bắc Việt mở cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam, Hoa Kỳ càng ngày càng tăng viện cho Nam Việt, nhưng đồng thời Hoa Kỳ bắt đầu nhận ra rằng CSQT không phải là một khối thống nhất, mà giữa Liên Xô và Trung Quốc có nhiều chia rẽ, tranh chấp. Nếu Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ cho Nam Việt, hai nước Liên Xô và Trung Quốc sẽ tạm thời bắt tay nhau để cùng giúp Bắc Việt. Muốn cho hai nước Liên Xô và Trung Quốc không xích lại gần nhau, Hoa Kỳ cần phải thay đổi chiến lược, rút ra khỏi Việt Nam, kiếm cách bắt tay với Trung Quốc để gây chia rẽ giữa hai cường quốc cộng sản Nga Hoa.

Sự giao thiệp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc bắt đầu bằng cuộc giao đấu bóng bàn hữu nghị giữa hai đội bóng bàn Hoa Kỳ và Trung Quốc ngày 14-4-1971 tại Nhân Dân Đại Sảnh Đường Bắc Kinh do thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai chủ tọa. Ba tháng sau, Henry Kissinger, cố vấn An ninh quốc gia của tổng thống Richard Nixon, bất ngờ đến Bắc Kinh gặp Chu Ân Lai ngày 9-7-1971.

Sự liên lạc giữa hai bên đưa đến kết quả ngày 25-10-1971, Đại hội đồng lần thứ 26 của Liên Hiệp Quốc chấp nhận CHNDTH thay thế Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) giữ ghế đại biểu của Trung Quốc, mà không gặp phản ứng phủ quyết của Hoa Kỳ. Như thế, vì quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh lâu năm là THDQ.

Tuy chưa chính thức công nhận CHNDTH, nhưng cuộc viếng thăm Bắc Kinh của tổng thống Richard Nixon bắt đầu từ ngày 21-2-1972, mặc nhiên chính thức hóa cuộc bang giao giữa hai nước. Từ đây, hai nước bắt đầu mở Văn phòng liên lạc tại thủ đô hai bên.

Trong khi đó, Hoa Kỳ thương thuyết với Bắc Việt và ký hiệp định Paris ngày 27-01-1973, đơn phương rút quân khỏi Việt Nam, mà lực lượng CSBV vẫn còn chiếm đóng lãnh thổ Nam Việt. Sau hiệp định Paris, Hoa Kỳ giảm viện trợ rồi cuối cùng cắt hẳn viện trợ cho Nam Việt (VNCH), trong khi CSQT tiếp tục tăng thêm viện trợ cho Bắc Việt để Bắc Việt tăng cường tấn công Nam Việt.

Đang lúc tình hình đang rất khó khăn cho Nam Việt, Trung Quốc đưa hạm đội đánh chiếm Hoàng Sa. Đương nhiên Hoa Kỳ, với những phương tiện thám thính khoa học không gian dư biết việc chuyển quân trên biển của Trung Quốc, nhưng Hoa Kỳ làm ngơ, hoàn toàn không giúp đỡ gì VNCH, để làm vui lòng người bạn mới giao thiệp là CHNDTH. Có tài liệu cho biết thêm rằng tàu chiến Hoa Kỳ đang di chuyển gần hải đảo Hoàng Sa, cũng không can thiệp giúp đỡ những binh sĩ VNCH đang lâm nạn trên biển cả.

Năm 1971, Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh Trung Hoa Dân Quốc tại LHQ. Sau năm 1973, Hoa Kỳ bỏ rơi tiếp đồng minh VNCH, mà một thời Hoa Kỳ đã từng ca ngợi là tiền đồn chống cộng của thế giới tự do.

KẾT LUẬN

Trước hết, ca dao Việt Nam có câu: "Khôn ngoan đối đáp người ngoài,/ Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.". Chính vì CSVN khôn nhà dại chợ, vì tham vọng quyền lực, quyết chí tấn công miền Nam, làm tiêu hao tổng lực dân tộc, nên Trung Quốc mới thừa cơ chiếm được hải đảo Hoàng Sa, làm bàn đạp để tiến xuống phía Nam.

Thứ đến là các thế lực bên ngoài, dầu Cộng sản Quốc tế hay Tư bản Quốc tế, đến Việt Nam đều vì quyền lợi của nước họ, chứ chẳng có chuyện tình nghĩa xã hội chủ nghĩa và cũng chẳng có chuyện thương yêu gì dân tộc Việt Nam. Cũng cần lưu ý thêm rằng tư bản và cộng sản là hai thế lực tương khắc nhưng tương sinh. Vì có cộng sản, tư bản Hoa Kỳ mới đến Việt Nam. Vì có tư bản Hoa Kỳ đến Việt Nam, cộng sản Bắc Việt mới nhờ cộng sản Trung Quốc đánh miền Nam. Khi tư bản Hoa Kỳ vừa quay lưng đi thì CSTQ nhào vào, chiếm liền hải đảo của chúng ta. Chẳng có người nước ngoài nào thương yêu dân tộc chúng ta. Nếu người Việt Nam mà cũng không thương yêu dân tộc mình thì càng tệ hại hơn nữa.

Ngày 19-01-1974, CSTQ đặt chân đến Hoàng Sa. Đây mới chỉ là bước đầu để CSTQ tiến vào biển Đông. Chắc chắn CSTQ sẽ còn tiến xa hơn nữa. Nếu một ngày kia, CSTQ trang bị thêm nhiều hàng không mẫu hạm, nhất là hàng không mẫu hạm chạy bằng nguyên tử lực, thì chắc chắn biển Đông sẽ dậy sóng, làm chấn động chẳng những các nước Đông Nam Á mà cả các nước trên thế giới.

Cuối cùng, sau khi "chống Mỹ cứu nước", tiêu hao hàng triệu sinh mệnh của thanh niên và đồng bào toàn quốc, lại mất đất mất biển vào tay Trung Quốc, chắc chắn CSVN đã ngộ ra được hai điều: Thứ nhất CSTQ hành động hoàn toàn theo quyền lợi Trung Quốc, không có chuyện tình nghĩa xã hội chủ nghĩa anh em, và sẵn sàng chiếm đất chiếm biển của nước ta. Thứ hai, nếu muốn Việt Nam tiến bộ thì phải hướng về Mỹ, nên sau năm 1975, CSVN tìm tất cả các cách để được Mỹ thừa nhận và giúp đỡ. Khi rước Mỹ "cứu nước", đảng CSVN xem như tự thú nhận là đã sai lầm trong quá khứ, một sai lầm đã giết hại hàng triệu sinh linh vô tội. Một đảng cầm quyền sai lầm trầm trọng như thế, không đáng đáng tin cậy để tiếp tục cầm quyền.

Trở về với trận hải chiến Hoàng Sa, nhân kỷ niệm ngày 19-01-1974, xin tất cả người Việt Nam hãy cùng nhau thắp nén hương lòng, tưởng nhớ sự hy sinh cao cả của cố trung tá Ngụy Văn Thà và các đồng đội của ông, đã anh dũng chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược, bảo vệ non sông gấm vóc do tổ tiên để lại. Sự hy sinh của Ngụy Văn Thà và đồng đội trong trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-01-1974 là thiên anh hùng ca bất tử, mãi mãi vang vọng như nhạc hồn đất nước trong lịch sử hào hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam.

TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 19-01-2009)

CHUYỆN MỘT CHIẾN HỮU SỐNG 12 NĂM TRONG HẦM KÍN TẠI CÙ LAO ÔNG HỔ (LONG XUYÊN).



An Giang trước đây thuộc Thuỷ chân Lạp, được Quốc vương Chân Lạp Nặc Tôn dâng chúa Nguyễn phúc Khoát năm 1757 để đến ơn lập mình lên làm vua và dẹp loạn. Năm 1832, Minh Mạng đổi các Trấn thành Tỉnh An Giang. Đến đời Pháp thuộc, năm 1876 thống đốc Dupré, An Giang được chia ra lục tỉnh : Long Xuyên, Châu Đốc, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cần Thơ và Sa Đéc.
Bạn Lý bá Bổ (ảnh ngày 4/1/2009)

An Giang có 2 nhánh sông Tiền và Hậu Giang chảy qua và sông Thoại Hà do vua Gia Long giáng chỉ cho Ông Nguyễn văn Thoại đào vào mùa Xuân 1818.
Thuở còn đi học, tôi rất thích bài Dòng An Giang của Anh Việt Thu vì dễ đàn, dễ hát và lời ca rất hay :

Dòng An Giang sông sâu nước biếc
Dòng An Giang cây xanh lá thắm
Lã lướt về qua Thất sơn
Châu Đốc dòng sông uốn quanh
Soi bóng Tiền Giang Cửu Long.
Dòng An Giang trăng lên lấp lánh
Dòng An Giang tung tăng múa hát
Đêm đến dòng sông thở than
Bên mấy hàng cau hắt hiu
Đã mấy mùa Xuân thái bình.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Dòng An Giang ai qua vẫn nhớ
Dòng An Giang xinh xinh nước biếc
Đây những thuyền ai lắc lơ
Đôi mái chèo trăng lướt qua
Lơ lửng vầng trăng vở tan.
Dòng An Giang xanh xanh khóm trúc
Dòng An Giang lơ thơ bến nước
Đây những người thôn nữ xinh
Duyên dáng chuyền tay dắt nhau
Múc mấy vầng trăng đổ đi . . .

An Giang cách Sài Gòn 189 cs, có nhiều ruộng lúa, sông hồ, đồi núi. Phong cảnh đẹp. Có nhiều khu du lịch : bến đá núi Sam, lâm viên núi Cấm, đồi Tức Dụp, Miễu bà Chúa Xứ, Lăng Thoại ngọc Hầu, chùa Tây An và nhiều... cù lao.
Cù lao Ông Hổ gồm 1 cồn lớn nằm cạnh thị xã Long Xuyên ( nay thuộc xã Mỹ Hoà Hưng gồm 5 ấp ) và 1 cồn nhỏ Phó Ba ( có 1 ấp ). Xuống bến phà Ô Môi phía Long Xuyên chỉ cần 15 phút đi đò là đã bước lên bờ cù lao.
Cồn có chiều dài 9cs và chỗ rộng nhất 3 cs. Diện tích tự nhiên 17,6 cs vuông.
Trước đây cù lao thuộc tổng Bình Thành tỉnh Long Xuyên. Đời vua Minh Mạng (1820-1840) cù lao có 1 nghĩa binh tên Trương công Lý mất được vua cho lập đình và sắc phong là vị thần tại đình làng Mỹ hoà Hưng.
Tên gọi cù lao Ông Hổ có nhiều cách lý giải. Có truyền thuyết cho rằng khi cù lao mới hình thành có đôi vợ chồng già đi lượm củi vớt được 1 con mèo con. Lớn lên hoá ra là một con hổ. Ông bà cụ mất, hàng năm đến ngày giổ hổ về với 1 con thú rừng phủ phục trước phần mộ để tưởng nhớ công ơn. Lâu dần, dân địa phương gọi là cù lao ông Hổ và cho lập đền thờ. Hiện nay, miếu thờ vẫn còn ở đầu rạch Cái Mơn ấp Mỹ Long.

Ngoài cù lao ông Hổ còn cù lao ông Chưởng,cù lao Giêng với xóm đạo Công giáo và trại mồ côi. Ngay địa phận 2 xã Hoà Hảo và xã Hưng Nhơn, trên Chợ Mới một chút, sông Tiền Giang phía Tân Châu và sông Hậu Giang phía Châu Đốc ăn thông với nhau bằng sông Vàm Nao rất rộng. Sông nầy có những dòng nước xoáy ngầm làm sụp lỡ 2 bên bờ mỗi ngày thêm thênh thang.
Từ thời Pháp thuộc, nhà thơ Huy Cận đã cảm hoài :

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng lòng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống chiều lên sầu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu.
Bèo giạt về đâu hàng nối hàng ?
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng ...

Dân An Giang hiền hoà trong đời sống tâm linh, hiếu khách thật thà khi tiếp xúc, được thiên nhiên ưu đải, có nhiều ruộng lúa sản lượng cao. Đến với cù lao ông Hổ bạn có thể nghỉ đêm sinh hoạt với cư dân ( homestay ) như ân tình ruột thịt bên dòng An Giang cây xanh, nước biếc.
Buổi sáng, vừa thức dậy nhìn ra sông bạn sẽ thấy ngay nhiều miệng chài nở tròn sau vòng tay vẩy của ngư dân đứng trên đầu một chiếc xuồng con bé xíu, những chiếc vó khẳng khiu vừa cất lên lấp lánh vảy bạc dưới ánh nắng buổi bình minh và một chợ nổi với những cây “bẹo” tòn ten rau củ, trái cây trước mũi ghe.
Buổi trưa sau khi đi trên một xuồng ba lá qua các kênh rạch ruộng vườn, nhìn các cô thôn nữ với nét mặt ưa nhìn thoăn thoắt ngắt những bông điên điển màu vàng óng và trở về với món ăn dân dã : cá lóc nướng trui, mắm thái Châu Đốc, bông điên điển nhúng lẩu cá linh ...
Bạn H.V.T (Houston-TX), một chiến hữu của vùng sông nước miền Nam, có bài thơ “vàng bông điên điển”, tôi thích nhất đoạn chót :

... Nắng chiều soi bóng chao nghiêng,
Em say sưa hái để quên dáng ngồi.
Tóc dài rẽ lệch đường ngôi,
Ôm bờ vai để tơ trời mân mê.
Đầy bông điên điển xuồng về,
Em thung dung giữa bốn bề nước mây.
Hương đồng quyện tóc huyền bay,
Anh làm lữ khách thương hoài màu bông.
(thơ Huyền vân Thanh)

Buổi chiều, bạn có thể mượn một xe đạp chạy xuyên đường làng quanh co hơn 10 cây số để thăm vườn mai của các nghệ nhân, trong ánh nắng nhạt dần của buổi hoàng hôn.
Đêm xuống, bạn dễ dàng chìm trong giấc ngủ, đâu đây tiếng hát ngọt ngào của một thôn nữ hay giọng ca mộc mạc của một lực điền trong tiếng bập bùng của ghi ta phím lõm u buồn...
Ông Hổ là một cù lao Nam bộ vẫn còn giữ nguyên vẹn nét đẹp hoang sơ : phong cảnh nên thơ hữu tình, con người thuỷ chung son sắt.

Dù ai xuôi ngược bốn bề,
Chưa đến ông Hổ, chưa về An Giang.
( ca dao Nam bộ )

Gần đây, do đưa đón vài đoàn khách nước ngoài đến cù lao Ông Hổ, vô tình tôi biết chuyện một chiến hữu sống 12 năm dưới hầm sâu tại ấp Mỹ Thuận, phía Đông của cù lao. Câu chuyện càng nung nấu tâm can tôi hơn khi biết vợ bạn là cựu học sinh Trung học Đoàn thị Điểm niên khoá 1970-1976.




Bạn Lý bá Bổ sinh ngày 9/7/1954 tại ấp Mỹ Thuận, xã Mỹ hoà Hưng, Châu Thành, An Giang (cù lao Ông Hổ). Bạn còn 8 anh chị em. 5 trai, 3 gái . Bạn thứ 9, còn 1 em trai và 1 em gái. Mẹ bạn mất năm 2000 và cha mất năm 2003, thọ 92 tuổi. Bạn là cựu học sinh Trung học Thoại ngọc Hầu Long Xuyên.

Bạn theo học khoá 10B/72 SQTB tại Đồng Đế Nha Trang. Số quân : 74/519359. Bạn tốt nghiệp hạng 90/1089 SVSQ ngày 27/10/73 được điều về TĐ 477 ĐPQ đóng ở Tầm Vu Phụng Hiệp Cần Thơ do Thiếu tá Nguyễn văn Khăm làm TĐT. ( đầu năm 1974 TĐT là Thiếu tá Phan thế Trung ).
Tháng 12/73 đồn Cầu Cây-Rạch Gòi do Chuẩn uý Nguyễn thành Trát làm trưởng đồn bị các TĐ Tây đô bao vây (TĐ1+2+3). Đơn vị bạn được lệnh đánh giải vây, bạn bị 1 viên đạn AK xuyên vai phải, nằm QYV PTG Cần Thơ một tháng. Tái khám 2 lần 29 ngày.
Bạn Bổ và vết thương củ từ 12/73



Sau đó, bạn được chuyển về TĐ 407 ĐPQ thuộc TK Phong Dinh do Đại uý Nguyễn văn Giúp làm TĐT, đóng ở kinh Thị đội, Bà Đầm, Thới Lai-Cờ Đỏ. Bạn được thăng cấp Thiếu uý ngày 11/02/1975.

Sáng 30/4/1975, bạn tháp tùng theo đoàn quân của nhiều đơn vị dùng tàu vượt biển Mỏ Ó Sóc Trăng. Gồm 2 tàu cây, mỗi tàu chở hơn 100 binh sĩ, đầy đủ súng ống đạn dược. Vừa ra biển hơn 5 cây số sóng lớn làm chìm 1 tàu (tất cả đều chết). Tàu bạn Bổ bị vô nước, chết máy dạt vào bờ neo đậu bên trong cửa sông chờ sóng yên sẽ ra đi. Nhưng khoảng 3 giờ sáng tàu bị bộ đội bao vây và bị bắt dẩn về căn cứ hải quân Đại Hải Long Phú Sóc Trăng. Toàn bộ quân trang và vũ khí bị tịch thu.

Sau 9 ngày nhốt ở một trường Tiểu học, bạn được cấp giấy cho về địa phương và bị đưa tập trung ở trường ĐTĐ Cần Thơ. Tháng 8/75 được đưa lên TTHLCL Châu Đốc. Bạn ở khung 7. Khoảng 8 tháng sau được đưa về Liên Trại 2 Vĩnh Điều Vĩnh Gia thuộc Tri Tôn Châu Đốc gần kinh Vĩnh Tế và bắt đầu đào kinh về Ba Thê núi Sập. Con kinh ngang 50m, sâu 5m từ kinh Vĩnh Tế nhắm tới núi Ba Thê.
Đêm 23/01/77 ( 5/12 âl ) lúc 22 giờ đêm nhóm cải tạo khoảng 50 người được lịnh ra bờ kinh Vĩnh Tế nhận hàng đem về trại ( lộ trình khoảng 10 cs ). Bạn và 50 trại viên bơi ngang sông, vượt trại. Mười phút sau, bộ đội truy đuổi bắn chết một số và một số bị bắt sống, còn được 14 người tìm đường sang Tỉnh Tà Keo. Thiếu uý Đức người Sg chết chìm vì không biết lội.
10 giờ sáng hôm sau đoàn còn 13 người. Có 1 anh bạn đem 1 số hình ảnh ướt ra phơi, phản chiếu ánh mặt trời nên bị Khơ Me đỏ phát hiện. Chúng cho quân bao vây. Một số bị bắn chết. Một số bị bắt chúng đánh đập tàn nhẩn. Bạn Bổ chui vào rừng tràm trốn, may chúng xom không gặp. Sau khi bọn Khơ Me đỏ rút, chỉ còn bạn và Thiếu uý thiết giáp Nguyễn văn Non ( tức soạn giả Yên Hà ). Nửa đêm, bạn Non trốn một mình tìm đường sang Thái Lan. Bạn Bổ cô đơn chờ đêm đến lội sang kinh Vĩnh Tế trở về VN, lưu lạc hơn 15 ngày trong rừng, chỉ ăn lá tràm non, đọt chạy, ốc sống và uống nước ruộng. Bạn tìm đường về nhà cha mẹ ở Cù lao Ông Hổ đúng đêm giao thừa Tết âm lịch năm 1977.

Với sự chở che của cha mẹ già, bằng cách đóng một thùng cây âm dưới đáy một bồ lúa sau nhà. Bạn đã ở trong hầm nầy trong 12 năm. Bạn luôn nghĩ cha mẹ thương che dấu nhưng hết sức nguy hiểm. Tình cờ 1 đêm bạn nghe radio mục tìm bạn bốn phương, bạn biên thư làm quen một cô giáo tật nguyền ở Cần Thơ bị giảm biên chế. Cô ta lên Cù lao Ông Hổ tìm bạn và dẫn bạn về Cần Thơ. Hai cuộc đời hẫm hiu, 2 số phận cay đắng gặp nhau, kết thành vợ chồng.
Lúc đầu bạn chỉ nói là trốn nghĩa vụ. Gia đình giúp bạn làm CMND mới với tên giả Phan đức Long sinh năm 1960.

Sau cùng, sợ bị phát hiện bạn nói thật trốn trại và gia đình bên vợ dẫn bạn ra trình diện Sở CA Cần Thơ ngày 18/08/93. Nơi đây, cho người về cù lao Ông Hổ tìm gặp cha mẹ bạn để xác minh. Bạn bị tạm giữ 1 tháng và sau đó trình diện mỗi ngày, mỗi tuần gần 4 năm (đúng ra là 3 năm 8 tháng 12 ngày ).
Bạn chính thức phục hồi quyền công dân khi được cấp CMND ngày 02/08/1997 ( sau khi được Sở Tư Pháp cho phép ), với 1 cái tên đặc biệt : Lý bá Bổ Phan đức Long.
Dù sống trên quê hương, nhưng bạn Bổ đến ngày được cấp lệnh khoan hồng có thời gian mất quyền công dân kỷ lục : 22 năm 3 tháng 18 ngày. Nhưng thời gian nầy bạn Bổ ở trong hầm tối 12 năm. Khi ra khỏi hầm về Cần Thơ bạn chỉ còn 35 kg và á khẩu 1 thời gian dài mới nói chuyện được.

Cô Hồng Nga (vợ bạn Bổ), cựu hs Đoàn thị Điểm, tốt nghiệp ĐHSP Anh văn năm 1981. Được về dạy AV trường PTTH Nguyễn việt Hồng ở cầu Đầu Sấu ( trước đây là trường Trung học Cái Răng do đại tá Mã sanh Nhơn, chỉ huy trưởng TT/HLCL Châu Đốc tài trợ xây cất ). Vì 2 chân bị yếu và sau khi giải phẩu không đi đứng được, cô bị cho nghỉ việc. Hiện nay cô kèm các cháu học sinh cấp II môn Anh văn tại nhà. Ngoài ra cô còn điều hành hội người khuyết tật Cần Thơ khoảng 240 người ( vận động nhà ai nấy ở ) và cơ sở nhịp cầu nuôi dạy 18 người khuyết tật. Họ đang làm nghề điêu khắc hàng thủ công mỹ nghệ, gia công ráp táp lô điện, quạt máy, thêu thùa, kết cườm ...kiếm sống qua ngày. Thường đầu ra sản phẩm rất yếu không đủ sống phải nhờ đến lòng nhân ái của các mạnh thường quân, chùa, nhà thờ v.v... Bạn Bổ là 2 chân của vợ để giao thiệp, tiếp xúc, nhận hổ trợ của các cá nhân và hội đoàn.

Hy vọng quảng đời còn lại của 2 bạn Bá Bổ + Hồng Nga tìm được nguồn hạnh phúc và an ủi qua các công tác xã hội giúp đời. Chúng tôi cũng cầu xin cho hội người khuyết tật do cô Hồng Nga điều hành, ngày càng có nhiều những tấm lòng vàng quan tâm, giúp đỡ.

T.V Cần Thơ.
( 15/01/2009 )
Cù lao Ông Hổ (Long Xuyên)